GIẢI ĐÁP TÌNH HUỐNG VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Tình huống 1:
Công ty tôi hoạt động trong lĩnh vực sản xuất điều hoà nhiệt độ. Tháng 11 năm 2014 Doanh nghiệp đã dùng 20 máy điều hoà lắp vào các văn phòng phục vụ cho hoạt động của Doanh nghiệp. Vậy xin hỏi Doanh nghiệp có phải tính và nộp thuế GTGT cho 20 máy điều hoà đó không?
Trả lời:
Theo Thông tư số 219 của Bộ Tài chính quy định: Đối với sản phẩm, hàng hoá doanh nghiệp xuất dùng phục vụ cho hoạt động kinh doanh (tiêu dùng nội bộ) của doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải kê khai, nộp thuế đối với hàng hoá tiêu dùng nội bộ đó. Đồng thời, doanh nghiệp được kê khai khấu trừ đối với hoá đơn giá trị gia tăng của hàng hoá đã xuất tiêu dùng nộ bộ.
Tuy nhiên để tạo thuận lợi hơn cho NNT, ngày 25/8/2014 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 119 đã sửa đổi nội dung này, theo đó: Hàng hoá do cơ sở kinh doanh xuất để sử dụng phục vụ hoạt động kinh doanh thì không phải tính, nộp thuế GTGT.
Như vậy, trường hợp doanh nghiệp bạn sử dụng 20 máy điều hoà do doanh nghiệp sản xuất để lắp vào các văn phòng phục vụ cho hoạt động của Doanh nghiệp thì không phải tính, nộp thuế GTGT.
Tình huống 2:
Xin hỏi Thông tư 78 về thuế thu nhập doanh nghiệp quy định: hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ có giá trị trên 20 triệu đồng nếu thanh toán bằng tiền mặt thì không được trừ chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế. Trong tháng 2 và tháng 4 năm 2014 trước khi Thông tư 78 được ban hành công ty tôi có 02 hoá đơn mua hàng hoá thanh toán bằng tiền mặt, giá trị mỗi lần mua hàng đều hơn 20 triệu đồng thì công ty tôi có được tính 2 hoá đơn trên vào chi phí khi xác định thuế thu nhập doanh nghiêp năm 2014 hay không?
Trả lời:
Thông tư 78 được ban hành ngày và có hiệu lực kể từ ngày 2 tháng 8 năm 2014. Theo quy định tại Thông tư 78 thì đối với các hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ đã thanh toán bằng tiền mặt phát sinh trước thời điểm Thông tư này có hiệu lực thi hành thì được tính vào chi phí khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp.
Như vậy, trường hợp hóa đơn mua hàng có giá trí trên 20 triệu của công ty bạn phát sinh từ tháng 2 và tháng 4 tức làtrước ngày thông tư 78 có hiệu lực nên 02 hoá đơn trên được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuếcủa năm 2014.
Tình huống 3:
Công ty tôi thành lập năm 2008 và mở 1 tài khoản ngân hàng duy nhất từ năm 2008 đến nay. Hàng tháng, quí, năm công ty tôi vẫn dùng tài khoản này để nộp thuế cho cơ quan thuế. Do sơ xuất công ty chúng tôi chưa đăng ký tài khoản ngân hàng này cho cơ quan thuế trước thời điểm ngày 31/12/2013. Công ty chúng tôi đã nộp đăng ký tài khoản này vào ngày hôm nay. Xin Quí cơ quan cho biết công ty chúng tôi sẽ bị xử lý như thế nào vì đăng ký chậm tài khoản ngân hàng cho cơ quan thuế. Công ty chúng tôi có được khấu trừ thuế GTGT đầu vào cho những hóa đơn trên 20 triệu thanh toán bằng tài khoản ngân hàng nói trên phát sinh từ ngày 1/1/2014 cho đến ngày 31/12/2014 không?
Trả lời:
Cục thuế TP Hà Nội nhận được phiếu chuyển của Tổng cục Thuế chuyển thư hỏi của Độc giả Thanh Phương do Cổng Thông tin điện tử – Bộ Tài chính chuyển đến, nội dung hỏi về khấu trừ thuế GTGT đầu vào, xử phạt khi chưa thông báo tài khoản ngân hàng với cơ quan thuế. Về nội dung vướng mắc này, Cục thuế TP Hà Nội có ý kiến như sau:
Căn cứ Điều 9 Chương I Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính phủ, quy định về thay đổi, bổ sung thông tin đăng ký thuế:
“Đối với người nộp thuế đã được cấp đăng ký thuế nhưng chưa thông báo thông tin về các tài khoản của người nộp thuế đã mở tại các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng với cơ quan thuế trước thời điểm Nghị định 83/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành thì phải thông báo bổ sung tại Tờ khai điều chỉnh, bổ sung thông tin đăng ký thuế theo mẫu số 08-MST ban hành kèm theo Thông tư này, thời hạn chậm nhất ngày 31 tháng 12 năm 2013…”
Căn cứ Điều 15 Mục 1 Chương III Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật Thuế giá trị gia tăng và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế giá trị gia tăng, quy định về điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào:
“…2. Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào (bao gồm cả hàng hoá nhập khẩu) từ hai mươi triệu đồng trở lên, trừ trường hợp tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn dưới hai mươi triệu đồng theo giá đã có thuế GTGT.
Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt gồm chứng từ thanh toán qua ngân hàng và chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt khác hướng dẫn tại khoản 3 và khoản 4 Điều này.
3. Chứng từ thanh toán qua ngân hàng được hiểu là có chứng từ chứng minh việc chuyển tiền từ tài khoản của bên mua sang tài khoản của bên bán (tài khoản của bên mua và tài khoản của bên bán phải là tài khoản đã đăng ký hoặc thông báo với cơ quan thuế) mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo các hình thức thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành như séc, uỷ nhiệm chi hoặc lệnh chi, uỷ nhiệm thu, nhờ thu, thẻ ngân hàng, thẻ tín dụng, sim điện thoại (ví điện tử) và các hình thức thanh toán khác theo quy định (bao gồm cả trường hợp bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua sang tài khoản bên bán mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân sang tài khoản bên bán nếu tài khoản này đã được đăng ký giao dịch với cơ quan thuế)…”
Căn cứ Điểm b Khoản 6 Điều 3 Thông tư số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013, Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013, Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013, Thông tư số 08/2013/TT-BTC ngày 10/01/2013, Thông tư số 85/2011/TT-BTC ngày 17/6/2011,¬¬ Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 và Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính để cải cách, đơn giản các thủ tục hành chính về thuế (hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2014), quy định:
“6. Sửa đổi, bổ sung Điều 15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC như sau:
…b) Sửa đổi, bổ sung khổ đầu khoản 3 Điều 15 như sau:
“3. Chứng từ thanh toán qua ngân hàng được hiểu là có chứng từ chứng minh việc chuyển tiền từ tài khoản của bên mua sang tài khoản của bên bán (tài khoản của bên mua và tài khoản của bên bán phải là tài khoản đã đăng ký hoặc thông báo với cơ quan thuế. Bên mua không cần phải đăng ký hoặc thông báo với cơ quan thuế tài khoản tiền vay tại các tổ chức tín dụng dùng để thanh toán cho nhà cung cấp) mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo các hình thức thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành như séc, uỷ nhiệm chi hoặc lệnh chi, uỷ nhiệm thu, nhờ thu, thẻ ngân hàng, thẻ tín dụng, sim điện thoại (ví điện tử) và các hình thức thanh toán khác theo quy định (bao gồm cả trường hợp bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua sang tài khoản bên bán mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân sang tài khoản bên bán nếu tài khoản này đã được đăng ký giao dịch với cơ quan thuế).”
Căn cứ Điều 7 Mục 1 Chương II Thông tư số 166/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 của Bộ Tài chính quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính về thuế, quy định về xử phạt đối với hành vi chậm nộp hồ sơ đăng ký thuế, chậm thông báo thay đổi thông tin trong hồ sơ đăng ký thuế so với thời hạn quy định.
Căn cứ các quy định trên, trường hợp đơn vị đã được cấp đăng ký thuế, đã mở tài khoản tiền gửi thanh toán duy nhất tại ngân hàng nhưng chưa thông báo thông tin về tài khoản này với cơ quan thuế trước thời điểm Nghị định 83/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành thì phải thông báo bố sung với cơ quan thuế chậm nhất ngày 31/12/2013 theo quy định tại Điều 9 Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính.
Quá thời hạn nêu trên, đơn vị chưa thông báo về tài khoản ngân hàng này với cơ quan thuế thì đơn vị bị xử phạt về hành vi chậm thông báo thay đổi thông tin trong hồ sơ đăng ký thuế theo quy định tại Điều 7 Thông tư số 166/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 của Bộ Tài chính.
Trường hợp trong năm 2014 đơn vị mua hàng hóa, dịch vụ từ hai mươi triệu đồng trở lên đã thanh toán qua tài khoản ngân hàng nêu trên nhưng chưa thông báo với cơ quan thuế thì đơn vị không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào do không đáp ứng điều kiện chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt để khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo quy định.